Cải cách hành chính có mối liên hệ chặt chẽ với công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Cải cách hành chính nếu được thực hiện hiệu lực, hiệu quả sẽ góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước, giảm tệ tham nhũng, quan liêu. Ngược lại, nếu như cải cách hành chính hời hợt, thiếu trọng tâm, thiếu sự phối hợp giữa cơ quan công quyền và toàn xã hội thì sẽ trở thành tiền để cho vấn nạn quan liêu, tham nhũng hoành hành
“Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.Tham nhũng là hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước, tham nhũng phản ánh các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, truyền thống, tập quán của một dân tộc, một quốc gia; không phân biệt chế độ chính trị, nước giàu hay nghèo, phát triển hay kém phát triển(1).Vì vậy tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng không chỉ nhận được sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước mà còn của cả xã hội.
Ở nước ta, tham nhũng gây ra những hậu quả vô cùng to lớn cho xã hội, nó không chỉ gây thiệt hại về vật chất mà lớn hơn tham nhũng làm tha hóa một bộ phận cán bộ, công chức của bộ máy Nhà nước, của Đảng và các đoàn thể xã hội; làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào bộ máy nhà nước, làm giảm hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, đe dọa sự tồn vong của quốc gia. Tham nhũng được coi là một trong bốn nguy cơ, thách thức trong sự nghiệp đổi mới,công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Ngày nay, cải cách hành chính (CCHC) là vấn đề mang tính toàn cầu. Cả các nước đang phát triển và các nước phát triển đều xem CCHC như một động lực mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trường kinh tế, bảo đảm dân chủ và các mặt khác của đời sống xã hội. Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ năm 1986, tính đến nay đã gần 20 năm. Quá trình CCHC được thực hiện từng bước thận trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. CCHC đang thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình trong việc đẩy nhanh sự phát triển đất nước(2).
Cải cách hành chính có mối liên hệ chặt chẽ với công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
CCHC nếu được thực hiện hiệu lực, hiệu quả sẽ góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước, giảm tệ tham nhũng, quan liêu. Ngược lại, nếu như CCHC hời hợt, thiếu trọng tâm, thiếu sự phối hợp giữa cơ quan công quyền và toàn xã hội thì sẽ trở thành tiền để cho vấn nạn quan liêu, tham nhũng hoành hành.
Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2001-2010 đã được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 phê duyệt. Qua 10 năm triển khai, có thể khẳng định những kết quả tích cực đã đạt được của CCHC: bộ mặt của nền hành chính nhà nước đã bước đầu thay đổi, hướng tới phục vụ nhân dân và xã hội; hệ thống thể chế được xây dựng và hoàn thiện hơn, tổ chức bộ máy tinh gọn hơn và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức được nâng lên. CCHC đã thực sự góp phần không nhỏ vào thành tựu phát triển kinh tế – xã hội, ổn định chính trị và trật tự xã hội ở nước ta trong thời gian qua(3).
Kết thúc giai đoạn 10 năm cải cách đầu tiên, bên cạnh những thành tựu đạt được đáng ghi nhận thì vẫn còn những mặt hạn chế nhất định. Chính vì vậy, ngay sau khi kết thúc giai đoạn 2001 – 2010, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30c/NQ-CP về Chương trình tổng thể CCHC giai đoạn 2011 – 2020 với 6 nhiệm vụ cụ thể: cải cách thể chế; cải cách thủ tục hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; cải cách tài chính công; hiện đại hóa hành chính.
Một trong những mục tiêu chính của nghị quyết đó là nhằm xây dựng hệ thống cơ quan nhà nước “thông suốt, trong sạch, vững mạnh”. Đây là vấn đề liên quan trực tiếp tới công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước và toàn dân ta.
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng là những cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước. Chủ thể tham nhũng phải là người có chức vụ quyền hạn thực hiện. Người có chức vụ, quyền hạn là người do bầu cử, bổ nhiệm, phê chuẩn, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, được giao thực hiện một nhiệm vụ công cụ thể. Chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để thực hiện hành vi tham nhũng vì mục đích vụ lợi(4). Như vậy, không phải bất cứ chủ thể nào trong xã hội cũng có thể thực hiện hành vi tham nhũng.
Cải cách hành chính góp phần hoàn thiên việc thiết lập những hành lang quan trọng bảo đảm quá trình phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý có hiệu lực, hiệu quả hành vi tham nhũng
Thể chế nhà nước là hệ thống những quy định tạo hành lang pháp lý cho mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội. Trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng thể chế nhà nước bao gồm các văn bản luật phòng, chống tham nhũng; nghị định quy định chi tiết luật phòng, chống tham nhũng và các văn bản khác có liên quan. Cải cách thể chế là một trong số những nội dung trọng tâm trong chương trình CCHC giai đoạn 2011 – 2020 của Chính phủ: xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật phòng chống tham nhũng; đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật; xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước…
Hiện nay pháp luật về phòng, chống tham nhũng mới chỉ đề cập đến 12 hành vi tham nhũng. Cụ thể: tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; giả mạo trong công tác vì vụ lợi; đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi; nhũng nhiễu vì vụ lợi; không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Trong thực tế, quá trình triển khai thi hành pháp luật ở Việt Nam đã xảy ra tình trạng pháp luật chưa đủ sâu, rộng để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong đó, những hành vi tham nhũng có thể diễn ra theo muôn hình vạn trạng khác nhau. Vì lẽ đó, tất yếu đòi hỏi hệ thống thể chế về phòng, chống tham nhũng cần được xây dựng đầy đủ, hoàn thiện và đổi mới một cách phù hợp với thực tiễn khách quan. Hoàn thiện hệ thống thể chế, tạo hành lang pháp lý đầy đủ sẽ góp phần quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng đạt được hiệu quả.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ tham nhũng hoành hành tại Việt Nam là do hệ thống thủ tục hành chính quá rườm rà, chậm trễ trong việc giải quyết thủ tục hành chính cho các cá nhân, doanh nghiệp. Theo Ngân hàng Thế giới, với thời gian 872 giờ doanh nghiệp phải bỏ ra để nộp thuế mỗi năm, Việt Nam đã trở thành nước tốn nhiều thời gian nộp thuế nhất khu vực. Đặc thù trong kinh doanh, chậm chạp đồng nghĩa với việc đánh mất cơ hội. Chính vì vậy, doanh nghiệp không thể không sử dụng “văn hóa phong bì” đối với cán bộ, công chức công quyền; đặc biệt đối với những người có liên quan trực tiếp đến thủ tục, giấy tờ kinh doanh của họ. Trào lưu văn hóa đó khiến một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức nhà nước rơi vào tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống; thực hiện hành vi tham nhũng với mưu đồ đem lại lợi ích về của cải vật chất một cách không chính đáng.
Nội dung cơ bản thứ 2 trong Nghị quyết 30c đã đưa ra nhiệm vụ trọng tâm trong cải cách thủ tục hành chính bằng việc: cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính; kiểm soát chặt chẽ việc ban hành thủ tục mới; công khai, minh bạch tất cả các thủ tục hành chính bằng các hình thức thiết thực và thích hợp… Cải cách thủ tục hành chính góp phần giảm số giờ nộp thuế cho các doanh nghiệp; công khai, minh bạch tất cả các thủ tục hành chính hạn chế khả năng cán bộ, công chức, viên chức các ngành thực hiện hành vi tham nhũng, nhận hối lộ. Thủ tục hành chính đơn giản, nhanh chóng là điều kiện cơ bản góp phần phát triển kinh tế – xã hội; đồng thời là biện pháp hữu hiệu phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng tham nhũng diễn ra trong hệ thống cơ quan công quyền.
Cải cách hành chính bảo đảm phát hiện và khắc phục kịp thời những kẽ hở dễ bị chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng lợi dụng trong quá trình thực hiện công vụ
Nguyên nhân dẫn tới tình trạng tham nhũng gia tăng trong khu vực nhà nước đó là việc “bưng bít, che đậy thông tin” của một số cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Khi thực hiện công vụ của mình, cán bộ, công chức, viên chức lợi dụng sự thiếu hiểu biết về pháp luật, chính sách nhà nước của một số chủ thể trong xã hội để thực hiện những hành vi “nhũng nhiễu, gây khó dễ cho công dân, tổ chức trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân của mình”. Đơn cử như trong việc quản lý đất đai tại các địa phương “Các nhà đầu tư cấu kết với cán bộ quản lý về đất đai để mua một diện tích lớn đất nông nghiệp. Sau đó, họ tác động với cấp có thẩm quyền để sửa quy hoạch, chuyển diện tích này thành đất phi nông nghiệp với sự chênh lệch về giá trị một cách vô cùng lớn.
Mặc dù Luật Phòng, chống tham nhũng, Pháp lệnh Dân chủ cơ sở và một số văn bản khác của pháp luật quy định phải lấy ý kiến công khai của người dân trước khi phê duyệt quy hoạch”(5). Và thế là, không ít tiền của doanh nghiệp đổ vào túi quan chức quản lý đất đai để “bôi trơn” dự án. Khắc phục được hạn chế trong quá trình tiếp cận thông tin dự án của người dân, cũng như cung cấp kênh thông tin chính thống góp phần bảo đảm tính dân chủ trong xã hội. Chương trình CCHC đưa ra một nhiệm vụ trong tâm hiện đại hóa nền hành chính bằng cách: Hoàn thiện và đẩy mạnh hệ thống hoạt động mạng thông tin điện tử trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước; công bố danh mục các dịch vụ hành chính công, đề án, chương trình, chính sách của nhà nước trên cổng thông tin điện tử của các tỉnh, thành phố, phòng ban có liên quan… Thông tin được công khai minh bạch, quy trình thủ tục được thực hiện đơn giản, dễ dàng, thuận tiện sẽ góp phần thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng.
Cải cách hành chính là một trong những yếu tố quyết định sự “thành – bại” đối với công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Trong hoạt động quản lý, yếu tố con người luôn được coi là trung tâm của tổ chức. Một đội ngũ nhân sự có năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức tốt chắc chắn sẽ tạo nên tổ chức trong sạch và vững mạnh. Tuy nhiên, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên những năm gần đây diễn biến phức tạp, ở nhiều lĩnh vực, với nhiều mức độ và hình thức biểu hiện. Đó là sự phai nhạt mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của cách mạng; nhận thức, quan niệm không đầy đủ, đúng đắn, thậm chí sai trái về những vấn đề cơ bản, liên quan trực tiếp đến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước…
Về đạo đức lối sống, đó là chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vụ lợi, vị kỷ trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Nạn tham nhũng, hối lộ, bòn rút, lãng phí của công; lối sống cơ hội, buông thả; thái độ thiếu trách nhiệm với công việc được giao; nói không đi đôi với làm; nói nhiều, làm ít… khá phổ biến. Đó còn là tệ quan liêu, xa dân, thích nghe thành tích, ngại nghe và nói sự thật… tồn tại ở không ít cơ quan, ban, ngành, địa phương…(6)
Để giải quyết những hạn chế này, Chương trình tổng thể CCHC giai đoạn 2011 – 2020 đã xác định rõ mục tiêu xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Trong đó đề ra những nhiệm vụ trọng tâm như: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, năng lực, tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân thông qua các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, có hiệu quả.
Hoàn thiện quy định của pháp luật về tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ, năng lực, sở trường của công chức, viên chức trúng tuyển; thực hiện chế độ thi nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh; thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý từ cấp vụ trưởng và tương đương (ở trung ương), giám đốc sở và tương đương (ở địa phương) trở xuống. Hoàn thiện quy định của pháp luật về đánh giá cán bộ, công chức, viên chức trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; thực hiện cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân; quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức, viên chức tương ứng với trách nhiệm và có chế tài nghiêm đối với hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức.
Tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công; đến năm 2020, tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc sống của cán bộ, công chức, viên chức và gia đình ở mức trung bình khá trong xã hội. Đổi mới quy định của pháp luật về khen thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ và có chế độ tiền thưởng hợp lý đối với cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành xuất sắc công vụ. Công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam có thành công hay không phụ thuộc rất lớn vào nhiệm vụ xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Bên cạnh đó, tài chính công là các khoản thu – chi sử dụng ngân sách nhà nước được các cơ quan có thẩm quyền sử dụng để thực hiện những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Suy cho cùng, chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng là vì lợi ích vật chất, trong đó “tiền công” hay “tiền chùa” theo cách gọi thông thường nhất là đối tượng chủ yếu họ hướng tới. Cán bộ, công chức, viên chức vì vụ lợi đã thực hiện những hành vi bòn rút ngân sách nhà nước; sử dụng tiền công vào mục đích cá nhân gây thiệt hại lớn đến chất lượng công tác quản lý nhà nước đồng thời làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào bộ máy công quyền. Đồng lương ít ỏi được nhận không đủ để cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước trang trải cuộc sống; cơ chế quản lý tài chính lỏng lẻo, thiếu sự kiểm tra, giám sát… là những nguyên nhân cơ bản dẫn tới hành vi tham nhũng.
Có thể nói, cải cách tài chính công là giải pháp hữu hiệu để hạn chế tình trạng tiêu cực trên. Tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công; đến năm 2020, tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc sống của cán bộ, công chức, viên chức và gia đình ở mức trung bình khá trong xã hội. Đổi mới quy định của pháp luật về khen thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ và có chế độ tiền thưởng hợp lý đối với cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành xuất sắc công vụ… là những nhiệm vụ trọng tâm Chính phủ cần thực hiện trong thời gian tới để bảo đảm sự thành công trong công tác CCHC cũng như góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả quá trình phòng, chống tham nhũng.
Cải cách hành chính phải được xác định là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị với phương châm là thường xuyên, kiên trì, quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm
Xác định chủ thể những lợi ích của CCHC trên hết, trước hết đó chính là nhân dân, là doanh nghiệp góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng. Việc học hỏi công tác CCHC góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả phòng, chống tham nhũng của một số quốc gia trên thế giới là việc đi tắt đón đầu nhằm đạt hiệu quả của công tác CCHC ở nước ta. Đồng thời, tăng cường sự phối hợp tham gia nhân dân, tổ chức chính trị – xã hội, doanh nghiệp cùng cơ quan nhà nước thực hiện CCHC có hiệu quả phục vụ công tác phòng, chống tham nhũng.
Có thể nói, tham nhũng là vấn nạn của cả hệ thống chính trị Việt Nam. Hậu quả của những hành vi tham nhũng gây ảnh hướng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế – xã hội, suy giảm niềm tin của nhân dân vào bộ máy công quyền. Có thể nói, để thực hiện thành công công tác phòng, chống tham nhũng đòi hỏi tiên quyết Đảng, Nhà nước và toàn dân ta phải thực hiện triệt để rất nhiều giải pháp khác nhau. Trong đó, CCHC là giải pháp vô cùng hữu hiệu đối với công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam.